SeABank đồng hành cùng Hội thảo: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh mới: Doanh nghiệp phải làm gì?
Sáng 18/10, dưới sự chỉ đạo của Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE), Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức Hội thảo: "Cơ hội và thách thức trong bối cảnh mới: Doanh nghiệp phải làm gì?" cùng sự đồng hành của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank) nhằm phân tích, đánh giá cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp trong bối cảnh mới, qua đó đề xuất các giải pháp thiết thực giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội, hoá giải các thách thức.
Hội thảo có sự tham dự của lãnh đạo các bộ, ngành, các chuyên gia kinh tế, công nghệ, cùng với đại diện của nhiều tập đoàn, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Thông tin về Hội thảo được tường thuật trực tiếp, đưa tin trên Tạp chí điện tử Nhadautu.vn, chuyên trang tiếng Anh Theinvestor.vn và các cơ quan báo, đài, truyền hình Trung ương và Hà Nội.
Đề xuất giải pháp giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội và vượt thách thức
Phát biểu khai mạc hội thảo, TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch thường trực VAFIE cho rằng, nước ta đang bước vào một kỷ nguyên phát triển mới với những cơ hội chưa từng có để vươn mình, song kèm với đó là những khó khăn, thách thức nghiệt ngã chưa từng thấy do những biến động dữ dội của địa chính trị và kinh tế thế giới, những rủi ro về biến đổi khí hậu, những đòi hỏi bức bách về chuyển đổi xanh, chuyển đổi số từ những yếu kém nội tại và những bất cập về cơ chế chính sách.
Trên thế giới, chiến tranh đang diễn ra ngay giữa lòng châu Âu, Trung Đông và xung đột cục bộ diễn ra tại nhiều nơi khác. Các cuộc chiến đã leo thang đến mức các phương tiện truyền thông đại chúng đã cảnh báo về nguy cơ chiến tranh hạt nhân, chiến tranh thế giới thứ ba.
Ở thời điểm hiện tại, các dự báo về tăng trưởng kinh tế thế giới không mấy lạc quan, thậm chí đã có những cảnh báo về một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, vỡ "bong bóng chứng khoán" trong một tương lai gần.
Điều cảnh báo này xuất phát từ những động thái gần đây trên thị trường tài chính tiền tệ quốc tế như việc Warren Buffett bán lượng cổ phiếu lớn trị giá tới 75,5 tỷ USD, FED và ngân hàng Trung ương nhiều nước giảm lãi suất, nhưng Nhật Bản ngược dòng tăng lãi suất để phục hồi giá trị đồng yên, những bất ổn mới của kinh tế Mỹ… Trật tự kinh tế thế giới cũ đang thay đổi và tại các diễn đàn chính thức, lãnh đạo một số quốc gia đã đề xuất kịch bản cho một trật tự kinh tế thế giới mới.
Biển đối khí hậu không còn là lời cảnh báo, thiên tai bão lũ diễn ra dồn dập tàn phá nhiều vùng đất trên thế giới, đòi hỏi các quốc gia phải hành động quyết liệt hơn để bảo vệ trái đất. Các đòi hỏi về chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm giảm khí thải nhà kính đang trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Cách mạng công nghệ 4.0, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo phát triển nhanh chưa từng thấy, tác động trực tiếp và sâu sắc cả tích cực và tiêu cực tới đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu. AI đang giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, nhưng không phải mọi áp dụng AI đều thành công và khả năng áp dụng AI đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa là hết sức hạn chế nếu không có chính sách hỗ trợ của Chính phủ. Công nghệ 4.0 sinh ra những ngành nghề mới, nhưng cũng làm triệt tiêu một số ngành nghề truyền thống.
Làm gì và làm thế nào để chuyển đổi số thành công lại đang là một câu hỏi lớn đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là SME.
Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Phạm Thắng.
Ở trong nước, đà phục hồi và tăng trưởng nhanh của nền kinh tế đang mở ra những cơ hội mới cho hoạt động đầu tư - kinh doanh. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP quý III của nước ta tăng 7,4%, tính chung 3 quý đầu năm tăng 6,82%; Chính phủ đang phấn đấu đạt mức tăng trưởng 7% trong năm 2024, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng 5,05% của năm 2023.
Xuất khẩu và dòng vốn FDI tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, hơn 70% kim ngạch xuất khẩu vẫn thuộc về khu vực FDI, sự kết nối giữa FDI với doanh nghiệp trong nước và giữa các tập đoàn lớn của Việt Nam với doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn lỏng lẻo.
Chủ trương đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông vận tải đang và sẽ tạo thuận lợi mới cho hoạt động đầu tư kinh doanh. Kết nối giao thông giữa các vùng miền của đất nước đã được cải thiện rõ rệt nhờ phát triển nhanh hệ thống đường cao tốc; Sân bay quốc tế Long Thành đang được đầu tư, cảng biển Cần Giờ có tổng vốn đầu tư gần 6 tỷ USD đang chuẩn bị đầu tư, dự án đường sắt Bắc Nam tốc độ cao có vốn đầu tư trên 70 tỷ USD chuẩn bị được trình Quốc hội thông qua và dự kiến khởi công vào năm 2027. Các dự án khổng lồ này đang mở ra cơ hội cho nhiều ngành kinh tế, như ngành logistics, xây dựng, công nghiệp sắt thép, xi măng và vật liệu xây dựng khác.
Hệ thống luật pháp về đầu tư kinh doanh đã và đang được hoàn thiện, nhiều đạo luật quan trọng được sửa đổi bổ sung và bắt đầu có hiệu lực thi hành như Luật Đất đai, Luật Nhà ở; Luật Kinh doanh bất động sản,… Tuy nhiên, theo phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp, vẫn còn nhiều vướng mắc, rào cản pháp lý mà nếu không kịp thời tháo gỡ sẽ "chôn chân" các doanh nghiệp trước các cơ hội mới.
TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó chủ tịch Thường trực VAFIE phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: Phạm Thắng.
Trong bối cảnh nói trên, làm gì và làm thế nào để tận dụng được cơ hội và hoá giải thách thức đang trở thành câu hỏi lớn mang tính thời sự đối với cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan chức năng của Chính phủ.
"Hội thảo hôm nay với chủ đề "Cơ hội và thách thức trong bối cảnh mới: Doanh nghiệp phải làm gì?" được Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ đạo Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức nhằm góp phần tìm lời giải cho câu hỏi đó.
Chúng tôi mong rằng, các chuyên gia và đại diện các doanh nghiệp sẽ thảo luận cởi mở, phân tích, đánh giá một cách khoa học để nhận diện những cơ hội và thách thức trong bối cảnh mới (cả trong nước và quốc tế), qua đó đề xuất các giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp tận dụng được cơ hội và vượt qua thách thức", TS. Nguyễn Anh Tuấn nói.
Chia sẻ những thông tin kịp thời và có giá trị
Ông Nguyễn Cảnh Hùng, Giám đốc Khối khách hàng doanh nghiệp SeABank, chủ đề hội thảo rất thiết thực, giúp các doanh nghiệp nắm bắt những xu hướng mới cũng như những thách thức mà chúng ta phải đối mặt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu không ngừng biến động.
Ông tin tưởng, đại diện từ các cơ quan bộ, ngành và chuyên gia sẽ chia sẻ những thông tin kịp thời và có giá trị. Những thông tin này sẽ là nguồn tài liệu quan trọng giúp các doanh nghiệp định hướng chiến lược phát triển và sẵn sàng thích ứng với mọi thay đổi.
Hội thảo có sự tham dự của lãnh đạo các bộ, ngành, các chuyên gia kinh tế, công nghệ, cùng với đại diện của nhiều tập đoàn, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Ảnh: Phạm Thắng.
Vị đại diện ngân hàng kỳ vọng rằng, qua sự kiện, các doanh nghiệp sẽ nhận được những góc nhìn mới, tìm ra các giải pháp hữu hiệu để phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh đầy biến động song song với các tiềm năng lớn.
"SeABank luôn cam kết đồng hành cùng doanh nghiệp trong quá trình vượt qua các thách thức và khai thác cơ hội. Chúng tôi tự hào giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ tài chính chuyên biệt, được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế hiện nay", ông Nguyễn Cảnh Hùng chia sẻ.
Đáng chú ý, các sản phẩm tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu, giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa các cơ hội từ thị trường quốc tế. Những sản phẩm - dịch vụ mà SeABank cung cấp không chỉ bao gồm các gói tín dụng linh hoạt, mà còn là những giải pháp tài chính toàn diện như bảo lãnh thanh toán và các sản phẩm tài chính phục vụ quản lý dòng tiền quốc tế hiệu quả.
Ông Nguyễn Cảnh Hùng, Giám đốc Khối khách hàng doanh nghiệp SeABank. Ảnh: Phạm Thắng.
Ngoài ra, SeABank còn phát triển các sản phẩm tài chính "may đo" dành riêng cho từng ngành nghề. Chúng tôi hiểu rằng mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành nghề có những đặc thù riêng biệt và những yêu cầu khác nhau. Vì vậy, SeABank cam kết sẽ mang đến các giải pháp tài chính phù hợp nhất với nhu cầu thực tế, giúp các doanh nghiệp tối ưu hóa hoạt động sản xuất kinh doanh và khai thác hiệu quả mọi cơ hội phát triển.
"SeABank cam kết không chỉ là một nhà cung cấp dịch vụ tài chính mà còn là đối tác đáng tin cậy của doanh nghiệp. Chúng tôi tin tưởng rằng, với những giải pháp tài chính tiên tiến, chúng tôi sẽ giúp các doanh nghiệp vững bước trong giai đoạn đầy thách thức này", ông Nguyễn Cảnh Hùng nhấn mạnh.
PHIÊN I: NHẬN DIỆN CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
Cải cách thể chế để thu hút đầu tư vào công nghệ số
Trình bày tham luận: "Bối cảnh mới: Thách thức mới, cơ hội mới, hành động mới", GS-TSKH. Nguyễn Mại, Chủ tịch VAFIE cho rằng: Triển vọng kinh tế của Việt Nam được nhìn nhận tích cực, cơ hội và rủi ro nhìn chung ở thế cân bằng.
Tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng chế biến, chế tạo dự kiến sẽ chững lại trong nửa cuối năm 2024, sau khi phục hồi ở mức 16,9% (so với cùng kỳ năm trước) trong nửa đầu năm 2024.
Thị trường bất động sản có dấu hiệu phục hồi và dự báo sẽ xoay chiều vào cuối 2024 và đầu 2025 sau khi giải quyết được tình trạng đóng băng thị trường trái phiếu doanh nghiệp và Luật Đất đai có hiệu lực từ tháng 8/2024. Nhu cầu trong nước sẽ tăng lên vào nửa cuối năm 2024 khi tâm lý nhà đầu tư và người tiêu dùng được cải thiện.
Cân đối tài khoản vãng lai được dự báo vẫn duy trì thặng dư, đồng thời Chính phủ đang quay lại mục tiêu cân đối ngân sách. Lạm phát dự kiến ở mức 4,5% trong năm 2024.
GS-TSKH. Nguyễn Mại, Chủ tịch VAFIE trình bày tham luận "Bối cảnh mới: Thách thức mới, cơ hội mới, hành động mới". Ảnh: Phạm Thắng.
Một trong những rủi ro chính đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam là tăng trưởng kinh tế toàn cầu có thể thấp hơn dự kiến, nhất là tăng trưởng của những đối tác thương mại lớn của Việt Nam như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, và Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu các mặt hàng chế biến, chế tạo của Việt Nam và ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Trong nước, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định có thể tác động tiêu cực đến niềm tin của người tiêu dùng và các nhà đầu tư. Thị trường bất động sản có thể hồi phục chậm hơn dự kiến tác động xấu đến đầu tư của khu vực tư nhân.
Nếu chất lượng tài sản của các ngân hàng tiếp tục yếu đi, năng lực cho vay của các ngân hàng có thể bị suy giảm. Việt Nam là một trong những quốc gia có nguy cơ dễ bị tổn thương nhất với biến đổi khí hậu. Thiên tai do biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng cũng có thể là một rủi ro tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Vấn đề đặt ra cho nước ta là làm gì và bằng cách nào để vượt qua thách thức, tranh thủ thời cơ thuận lợi đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, doanh nghiệp số, xã hội số, chính phủ số góp phần cùng các quốc gia trên thế giới đạt mục tiêu không để nhiệt độ trái đất vượt quá 1,5 độ C vào năm 2050.
Kiến nghị về giải pháp bao gồm:
Về phía Nhà nước, nhà nước vừa có chức năng dẫn dắt doanh nghiệp (DN) chuyển đổi số, vừa tạo ra hệ sinh thái để khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi số. Do đó cần nhanh chóng xây dựng đồng bộ thể chế, luật pháp, chính sách kinh tế số, sửa đổi, bổ sung quy định đối với các ngành kinh doanh mới như thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số.
Cải cách thể chế để thu hút đầu tư vào công nghệ số theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua bán sáp nhập doanh nghiệp công nghệ số. tạo môi trường thuận lợi để đẩy mạnh chuyển đổi số, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
Nhà nước cần phải xây dựng hai loại thể chế, luật pháp, chính sách đối với hai loại hình DN: DN vừa và nhỏ trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Luật Hỗ trợ DN vừa và nhỏ để sửa đổi, bổ sung một số vấn đề liên quan đến chuyển sang DN số và tập đoàn công nghệ, tập đoàn kinh tế theo hướng nhanh chóng hình thành hàng trăm tập đoàn quốc doanh, tập đoàn tư nhân, tập đoàn hỗn hợp để làm chủ thị trường trong nước, vươn ra thị trường khu vực và tiến tới ra thị trường toàn cầu.
Cải cách thủ tục hành chính để các DN nhất là SMEs dễ dàng tiếp cận các Quỹ hỗ trợ DN, tín dụng ưu đãi chuyển đổi số, thành lập thêm một số Quỹ hỗ trợ chuyên ngành như công nghệ thông tin, công nghệ bán dẫn, AI, công nghệ hỗ trợ để DN nhất là SMEs, startup có điều kiện ứng dụng công nghệ mới, đào tạo nhân lực chất lượng, đổi mới quản trị DN.
Nhà nước có chính sách khuyến khích kết nối theo chuỗi cung ứng sản phẩm giữa DN FDI với DN trong nước, giữa tập đoàn kinh tế Việt Nam với SMEs để hình thành thương hiệu Việt Nam trên thị trường trong nước và thị trường thế giới.
Nhà nước khuyến khích thành lập các công ty tư vấn công nghệ, dịch vụ chuyển đổi số để hỗ trợ DN nhất là SMEs thực hiện chuyển sang DN số với chi phí hợp lý cho từng gói dịch vụ. Tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho công cuộc chuyển đổi số.
Các đại biểu tại hội thảo. Ảnh: Phạm Thắng.
Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư các cơ sở đào tạo mở các khoá bồi dưỡng chuyên gia, kỹ thuật viên, đào tạo nghề, hình thành mô hình đào tạo liên kết giữa DN - viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng - cơ quan quản lý nhà nước để xây dựng đội ngũ chuyên ngành thương mại điện tử, an ninh mạng, công nghệ thông tin, truyền thông. Phát triển hạ tầng chuyển đổi số đáp ứng đòi hỏi trao đổi thông tin, sử dụng các công nghệ tiên tiến, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin.
Các cơ quan quản lý Nhà nước ở trung ương và địa phương phải được kết nối mạng diện rộng của Chính phủ và Internet băng thông rộng, đủ năng lực cung cấp các dịch vụ công, và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, từng bước xây dựng chính phủ điện tử.
Về phía doanh nghiệp, cần chủ động chuyển đổi quản trị DN trong bối cảnh chuyển đổi số. Các DN Việt Nam cần xác định rằng trong bối cảnh chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, nếu DN không chuyển mình bắt kịp xu hướng thì sẽ bị tụt hậu, thậm chí sẽ bị phá sản trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt
Đồng thời điều chỉnh chiến lược phát triển DN trong bối cảnh chuyển đổi số. Cần có lộ trình cụ thể từ lập kế hoạch, triển khai theo từng giai đoạn cả về công nghệ, nhân lực cho phù hợp với thực trạng của DN.
DN nhất là SMEs, startup cần giao tiếp với các công ty công nghệ, dịch vụ để thực hiện chuyển sang DN số nhờ các gói hỗ trợ có chất lượng cao nhưng chi phí thấp đối với quản trị DN, kế toán, nộp thuế, chăm sóc khách hàng, quản lý nhân lực.
Ngoài nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số và quản trị DN bằng công nghệ số thì chủ doanh nghiệp, chuyến viên công nghệ và chuyên viên kinh tế phải có sự quyết tâm sâu sắc, để cho cả bộ máy của doanh nghiêp vận hành tốt nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của DN.
Có chính sách thu hút vốn cho đầu tư phát triển kinh tế số, kinh tế xanh
TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV trình bày tham luận "Xu hướng mới trong hoạt động đầu tư và thương mại, cần làm làm gì để tận dụng cơ hội, hóa giải thách thức?" nhấn mạnh vào 8 xu hướng mới của kinh tế quốc tế sau đại dịch COVID-19.
TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV. Ảnh: Phạm Thắng.
Thứ nhất, kinh tế thế giới phục hồi nhưng không đồng đều, rủi ro lại gia tăng (về mặt kinh tế, địa chính trị).
Thứ hai, phát triển về lối sống xanh hóa hơn.
Thứ ba, chính sách tiền tệ và tài khóa thay đổi rất lớn. Nhiều CSTT chưa từng có tiền lệ được vận dụng thời gian qua.
Thứ tư, dịch bệnh trở thành xúc tác cho chuyển đổi số nhanh hơn, tổng kết sơ bộ 2 năm bằng 20 năm.
Thứ năm, câu chuyện nữa là thế giới tái cấu trúc lại, Việt Nam chúng ta sẽ hưởng lợi gì từ tái cấu trúc dịch chuyển dòng vốn đầu tư.
Thứ sáu, đó là quá trình toàn cầu hóa, liên kết kinh tế số, song đã có sự thay đổi về hình thái.
Thứ bảy, cạnh tranh về chiến lược và bảo hộ thương mại.
Cuối cùng là biến đổi khí hậu khắc nghiệt hơn.
Có thể thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế trong thập niên này ở cả thế giới và Việt Nam đang chậm lại. Tăng trưởng khoảng 2,5-2,6%, thấp hơn giai đoạn trước là 3,3-3,5%. Việt Nam được đánh giá tương đối tích cực trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đây là điểm đáng ghi nhận khi thu nhập bình quân đầu người trước và sau COVID-19 của Việt Nam nằm trong top 3 phục hồi tốt sau dịch bệnh (cùng với Trung Quốc), với con số đạt khoảng 20%.
Về yếu tố lạm phát, tôi nghĩ không đáng lo kể cả chiến tranh Trung Đông diễn ra. Minh chứng là giá năng lượng vẫn giữ ở mức 70-75 USD/thùng. Tác động rủi ro địa chính trị với mức độ ảnh hưởng tương đối cao, số liệu cho thấy tháng 10 năm nay tương tự cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, mức độ phục hồi của một số nước chậm lại, đặc biệt là Trung Quốc và EU.
Đối với xu hướng thương mại và đầu tư, việc ông Donald Trump thắng cử được dự báo sẽ khiến thế giới trở nên khó đoán định hơn. Việt Nam có thể chịu thiệt thòi hơn về thương mại đầu tư. Có thể sẽ bị tiến hành chống bán phá giá, gắn mác thao túng tiền tệ. Đó là rủi ro cần lưu tâm thời gian tới. Xu hướng bảo hộ thương mại với các chính sách tăng gấp 3 lần trong giai đoạn 2018-2023. Nhiều vụ kiện tụng, điều tra đều tăng….
Đáng chú ý, là Việt Nam lại được hưởng lợi. Nhập khẩu của Mỹ với hàng hóa dịch vụ xuất khẩu từ Việt Nam thời gian qua tăng rất nhanh. Xu hướng tái cấu trúc, tái cung ứng chuỗi đầu tư, xét về dòng vốn FDI, Việt Nam cũng được hưởng lợi. Số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoai bình quân trong giai đoạn 2018-2023 tăng 43% so với giai đoạn 2013-2018 (chỉ xếp sau Singapore).
Về chuyển đổi số, trong top 10 quốc gia xếp thứ hạng AI, Việt Nam xếp thứ 58, Về xanh hóa, xu hướng quan trọng là Việt Nam cần tập trung ưu tiên, năng lượng, nông nghiệp, một số lĩnh vực công nghiệp…
Trái phiếu xanh tăng mạnh năm 2023, mức độ đầu tư xanh năm nay tương tự 2021, nhiều loại trái phiếu mới được phát sinh, cần làm thế nào để thu hút nguồn lực xanh và đa dạng xanh, chỉ có tín dụng xanh thì chưa ăn thua. Trong khi đó, xét xếp hạng năng lượng kinh tế số và tăng trưởng xanh, Việt Nam đứng ở mức khá khiêm tốn.
Đối với những thách thức với Việt Nam, tôi nghĩ thách thức từ bên ngoài luôn hiện hữu. Sức chống chịu tổng thể của nền kinh tế (FM Resilience Index) ở mức trung bình thấp (xếp thứ 109/130 thế giới và 7/9 ASEAN); mô hình tăng trưởng chưa có nhiều đổi mới;
Nhu cầu vốn đầu tư lớn trong khi nguồn lực hạn chế (theo WB, Việt Nam cần tới 368 tỷ USD trong 2022-2040 (6,8% GDP/năm) để phát triển kinh tế xanh, hướng giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050…); Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu; thể chế và nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế số, nhất là AI, chuyển đổi xanh…còn nhiều hạn chế.
Do đó, tôi kiến nghị Nhà nước hoàn thiện khung chính sách, cơ chế thử nghiệp (sandbox) cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và các mô hình kinh doanh mới; quan tâm phát triển thị trường tài chính, nhất là thị trường TPDN, thị trường cổ phiếu, quỹ đầu tư, thị trường vốn đầu tư mạo hiểm; thị trường phái sinh và thị trường tín chỉ carbon;
Có cơ chế, chính sách để thu hút nguồn vốn (cả Nhà nước và tư nhân) cho đầu tư phát triển kinh tế số, kinh tế xanh và tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng (thành lập Quỹ tăng trưởng xanh…); có chính sách, giải pháp đột phá phát triển nguồn nhân lực và KHCN trong bối cảnh mới; ưu tiên thích đáng phát triển AI, an ninh mạng và lựa chọn mô hình phát triển công nghiệp bán dẫn phù hợp…
Doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm kiếm cơ hội
TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh trình bày tham luận: "Bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước - những yếu tố tác động tới doanh nghiệp".
TS. Võ Trí Thành. Ảnh: Phạm Thắng.
Thế giới đang đổi thay mạnh mẽ cùng nhiều xu hướng lớn, một thế giới của tư duy mới về phát triển như: Từ "tăng trưởng kinh tế" sang "phát triển bền vững, bao trùm"; từ "kinh tế nâu" sang "kinh tế xanh"; từ "kinh tế tuyến tính" sang "kinh tế tuần hoàn"; từ "kinh tế thực" sang "kinh tế thực-số"/"kinh tế số"; từ "thị trường" sang "thị trường cùng một nhà nước/xã hội thúc đẩy sáng tạo"; từ "tự do hóa thương mại" sang "tự do hóa cùng tạo dựng các chuỗi cung ứng hiệu quả, có khả năng chống chịu".
Dù vậy, bên cạnh đó cũng có nhiều rủi ro. Điển hình như việc đối đầu, cạnh tranh địa - chính trị dẫn đến đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu (GSCs), "phân mảnh" thế giới (địa kinh tế, địa tài chính, địa công nghệ) và tâm lý quan ngại, niềm tin suy giảm. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu; thiên tai, thời tiết cực đoan tạo ra khủng hoảng năng lượng, lương thực và nguy cơ dịch bệnh. Một thế giới với cả thách thức và cơ hội to lớn chưa từng thấy.
Trong đó, cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số, chuyển đổi xanh (thể chế, chính sách; sản xuất kinh doanh; đầu tư; tài chính; tiêu dùng) dẫn đến tư duy mới về phát triển, cam kết chính trị. Thay đổi cấu trúc dân số có thể dẫn đến già hóa, bất bình đẳng xã hội và sự nổi lên của tầng lớp trung lưu (đặc biệt ở các nền kinh tế mới nổi và châu Á).
Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm kiếm cơ hội; chấp nhận cạnh tranh cùng kết nối với đối tác giỏi nhằm học hỏi và chia sẻ; chuyển động cùng cách mạng công nghiệp 4.0; đối thoại và ứng xử theo luật (đảm bảo hợp đồng kinh doanh và bảo vệ quyền lợi); huy động vốn trong một thị trường tài chính đa dạng, phức hợp, tinh xảo;
Đồng hành cùng Chính phủ để nắm bắt chính sách, cải cách; thực hiện trách nhiệm xã hội, môi trường (ESG như một trọng yếu trong xây dựng thương hiệu, trong chiến lược phát triển doanh nghiệp và ứng dụng mô hình kinh tế xanh; kinh tế tuần hoàn...); quản trị bất định/rủi ro.
TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó chủ tịch Thường trực VAFIE là người điều phối thảo luận mở của phiên I.
Diễn giả chính: GS-TSKH. Nguyễn Mại, Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE); PGS-TS. Bùi Tất Thắng, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ KH&ĐT; TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh; PGS-TS. Phan Đăng Tuất, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI); ông Nguyễn Thanh Hải, chuyên gia kinh tế; ông Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương.
TS. Nguyễn Anh Tuấn điều phối phần thảo luận mở. Ảnh: Phạm Thắng.
Chuyển đổi số, tăng trưởng xanh cần thời gian "vào" được doanh nghiệp
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Cảm ơn các chuyên gia đã trình bày 3 tham luận, trong đó nghiên cứu thể hiện được nhiều vấn đề. Tiếp phần thảo luận, chúng ta sẽ cùng phân tích để làm rõ những câu chuyện sâu sắc hơn. 3 tham luận đã nêu ra cơ hội và thách thức, tuy nhiên mức độ đánh giá mức độ thách thức cơ hội vẫn khác nhau. Ngoài những cơ hội, thách thức 3 diễn giả đã chỉ ra doanh nghiệp cần lưu ý thêm điều gì, Chính phủ cần lưu ý điều gì và những lời khuyên với doanh nghiệp. Ý kiến đầu tiên xin mời PGS-TS. Phan Đăng Tuất, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI).
PGS-TS. Phan Đăng Tuất: Thông tin 3 tập đoàn bán lẻ Trung Quốc vào Việt Nam là rất quan trọng và đáng chú ý, họ bán hàng hóa giá rẻ hơn chúng ta, không có tiền ship…
Nhiều doanh nghiệp lo sợ đây là điều sẽ tác động tiêu cực dến họ. Ngoài ra, thép Trung Quốc đang vào Việt Nam với mức bán phá giá trong hơn 1 năm nay rồi. Công nghệ hỗ trợ đang gặp làn sóng nhiều bên muốn M&A mua lại…
PGS-TS. Phan Đăng Tuất, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Ảnh: Phạm Thắng.
Đúng là câu chuyện số, chuyện xanh quan trọng, nhưng doanh nghiệp phải làm gì? Tôi nghĩ cần làm một lộ trình rõ ràng các DN thương mại, sản xuất làm gì để hàng hóa có cơ hội mà vẫn thỏa mãn tiêu chí số và xanh. Tôi hiểu rằng DN cần những gì trực diện nhất với sự sinh tồn của họ. Chuyển đổi số, tăng trưởng xanh cần có thời gian để "vào" được DN.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Có thể thấy những gì doanh nghiệp cần là rất cụ thể, tại hội thảo có sự tham gia của đại diện các doanh nghiệp, tập đoàn, các SME, chúng tôi muốn nghe thêm ý kiến từ các doanh nghiệp, doanh nghiệp cần gì, Chính phủ hỗ trợ gì? Xin mời ông Nguyễn Hữu Đường, Chủ tịch Tập đoàn Hòa Bình.
Quan trọng nhất doanh nghiệp phải có chỗ bán hàng
Ông Nguyễn Hữu Đường: Tôi là một trong những người đầu tiên ở Việt Nam thành lập doanh nghiệp. Trong lĩnh vực kinh doanh của mình tôi đã làm nhiều sản phẩm, và các lĩnh vực đều đem lại thành công.
Nhưng từ năm 2020, cũng như nhiều doanh nghiệp khác, tôi cũng gặp khó vì COVID-19. Vấn đề tôi muốn đề cập là hệ thống thương mại, cạnh tranh để bán hàng. Trong lĩnh vực kinh doanh của mình, tôi đã đi rất nhiều nước để làm bia, nước giải khát,…
Ông Nguyễn Hữu Đường, Chủ tịch Tập đoàn Hòa Bình. Ảnh: Phạm Thắng.
Năm 2015, tôi có 1 đề án là xây dựng một trung tâm thương mại miễn phí mặt bằng cho các doanh nghiệp trong nước. Để làm được đề án này tôi đã sang nhiều nước để tham khảo cách họ thực hiện. Tôi thấy rằng, quan trọng nhất doanh nghiệp phải có chỗ bán hàng, trung tâm này sẽ mua bảo hiểm hàng hóa, đây sẽ là biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Liên quan đến thương mại, TS. Cấn Văn Lực vừa nãy đã chỉ ra xu hướng bảo hộ thương mại, như vậy trong nước đánh mất thị trường, bên ngoài thì đối mặt với bảo hộ, vậy có cách nào để các doanh nghiệp Việt Nam khắc phục vượt qua các hàng rào kỹ thuật. Xin mời ý kiến PGS-TS. Đào Văn Hùng, nguyên Giám đốc Học viện Chính sách phát triển (Bộ KH&ĐT).
Ông Đào Văn Hùng: Hàng rào thương mại đã áp dụng với nhiều nước. Tuy nhiên, trên thực tế, xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ vẫn tăng. Ở Việt Nam, qua số liệu cho thấy, xuất khẩu vẫn tăng, nhanh hơn nhập khẩu từ Mỹ.
Doanh nghiệp phải đối mặt và sẽ có những giải pháp để vượt qua khó khăn trong hoạt động thương mại. Chính phủ khó có giải pháp cho các vấn đề này, quan trọng hơn cả là nỗ lực của doanh nghiệp.
PGS-TS. Đào Văn Hùng, nguyên Giám đốc Học viện Chính sách phát triển (Bộ KH&ĐT). Ảnh: Phạm Thắng.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: TS. Nguyễn Đình Cung có hiến kế gì xin mời?
TS. Nguyễn Đình Cung: Doanh nghiệp chỉ cần Chính phủ đồng hành, giúp đỡ, hỗ trợ. Chính sách pháp luật nằm trong tay Chính phủ và có thể giải quyết và hỗ trợ thị trường.
Lấy ví dụ như thị trường địa ốc đang gặp nhiều khó khăn cả về cung cầu, Chính phủ nỗ lực thì có thể giải quyết được các vấn đề. Hay Điều 40 Luật Xuất nhập cảnh cần phải làm rõ khái niệm cưỡng chế thuế.
TS. Nguyễn Đình Cung (phải). Ảnh: Phạm Thắng.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: TS. Võ Trí Thành có thể bổ sung?
TS. Võ Trí Thành: Về vấn đề đàm phán, ví dụ như tiêu chí xanh, đấy là xu hướng thì trong thời gian các nước đang phát triển thực hiện phải giãn thời hạn thực hiện, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam đang đấu tranh.
Hai là, chúng ta phải hiểu hàng rào, đây là các biện pháp phi thuế quan, cho nên các nước thường lạm dụng, họ dùng quy trình bảo vệ. Điều này có thể thấy có vai trò của Chính phủ trong các nước và vai trò của doanh nghiệp.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Chúng tôi muốn nghe thêm ý kiến các doanh nghiệp, ông Nguyễn Hữu Đường muốn có ý kiến gì bổ sung?
Hệ thống thương mại không rẻ hơn Trung Quốc sẽ thất bại
Ông Nguyễn Hữu Đường: Chúng tôi đang có đề án làm đường vành đai 4 với mức giá thấp hơn khoảng 60%. Khi làm vành đai 4 diện tích đất phía dưới có khoảng 5 triệu m2, hàng năm TP. Hà Nội phải bỏ tiền xử lý môi trường. Chúng tôi có dự án sẽ làm kênh dẫn nước, trên mặt đường xây dựng hệ thống trung tâm thương mại (có thể làm 4,5 triệu m2).
Chúng tôi sẽ miễn phí tiền thuê mặt bằng cho doanh nghiệp. Khi chúng ta có trung tâm thương mại, thế giới đến đó mua hàng. Nếu không có hệ thống thương mại, hoạt động không tốt, không rẻ hơn sẽ thất bại. Làm thế nào để doanh nghiệp phát triển? Hiện nay doanh nghiệp Trung Quốc đang thừa hàng và rẻ hơn chúng ta 50-60%.
Ông Nguyễn Hữu Đường, Chủ tịch Tập đoàn Hòa Bình. Ảnh: Phạm Thắng.
Làm sao để hàng Trung Quốc bán được cho thế giới và ngược lại. Hiện nay, chúng tôi không dám sản xuất gì cả, tập trung làm nhà ở xã hội nhưng nếu có hệ thống thương mại tốt, DN sẽ phát triển nhanh hơn.
Ngoài ra, chúng ta có thể làm nhiệm vụ tổ chức, ăn ở phục vụ đi lại cho khách du lịch, để người Việt Nam không phải ra nước ngoài mua sắm nữa. Doanh nghiệp mong muốn Chính phủ đẩy mạnh giảm thủ tục hành chính, cần coi chống lãng phí thời gian như chống tham nhũng. Lãng phí thời gian là lãng phí lớn nhất. DN mong muốn được làm đúng luật, đúng quy định, đặc biệt trong các loại cấp phép chủ trương đầu tư.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Ý của ông Nguyễn Hữu Đường rất hay, đúng là đã đến thời điểm cần phải đặt nặng sự lãng phí thời gian của cơ quan công quyền. Tiếp mạch doanh nghiệp, xin mời ý kiến ông Kelvin, Chủ tịch Hiệp hội Định cư Canada.
Việt Nam không "xanh", chắc chắn chúng ta sẽ bị đánh thuế
Ông Kelvin: Vừa qua, chúng tôi đã gặp một đại diện thương mại từ Trung Quốc. Phía Trung Quốc không muốn bị đánh thuế nên bày tỏ ý muốn mượn Việt Nam để tránh Mỹ đánh thuế do 80% hàng hóa Trung Quốc đến Mỹ. Nếu sản xuất tại Việt Nam thì mức độ đánh thuế chỉ từ 2-4%.
Ông Kelvin, Chủ tịch Hiệp hội Định cư Canada. Ảnh: Phạm Thắng.
Chúng tôi không muốn trở thành mục tiêu đầu tư núp bóng cho Trung Quốc. Trung Quốc từng yêu cầu chuyển giao công nghệ để sản xuất hàng "made in China", thì Việt Nam cũng có thể yêu cầu điều tương tự. Với phương pháp xuyên biên giới không chống lại nữa, tại sao chúng ta không mượn hệ thống này của Trung Quốc để bán hàng sang các nước khác.
Đối với cách để lấy lại hệ thống thương mại tại Việt Nam. Lấy ví dụ khi thương mại may mặc Việt Nam mất 10% (khoảng 5 tỷ USD), có khả năng số này "chảy" sang Bangladesh. Lý do là họ có tổ chức xanh, hạ tầng xanh. Nếu Việt Nam không "xanh", chắc chắn chúng ta sẽ bị đánh thuế.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Để chốt lại phiên 1, tôi xin mời PGS-TS. Bùi Tất Thắng,nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ KH&ĐT có thể cung cấp cho hội thảo một số thông tin chúng ta chuẩn bị bước vào 5 năm tới như nào?
PGS-TS. Bùi Tất Thắng: Kinh tế thế giới có xu hướng chậm lại, còn Việt Nam thì đã đổi mới 40 năm nên nhìn lại, mặc dù có nhiều thành tích song còn chậm, 10 năm sau chậm hơn 10 năm trước. 5 năm sau phải tăng trưởng cao hơn để bù cho 5 năm vừa qua không đạt chỉ tiêu.
PGS-TS. Bùi Tất Thắng. Ảnh: Phạm Thắng.
Điều đó có nghĩa rằng khi các mục tiêu phát triển 10 năm vẫn kiên định, quan điểm không đổi thì phải tìm ra cách làm mới, giải pháp mới. Trong đó ở các báo cáo, văn kiện sau này, cần khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám bảo vệ lợi ích chung; Phải xác định kiến nghị cụ thể, để ra quyết sách cho 5 năm tới. Tôi cho rằng, điều quan trọng là chất lượng pháp luật và hiệu quả thực thi pháp luật.
TS. Võ Trí Thành: Cần nhìn nhận rằng, từ năm 1998 (sau khủng hoảng Châu Á) chúng ta đã nói về Đổi mới lần 2 nhưng vấn đề quan trọng là nội hàm Đổi mới. Theo đó, cùng với việc nhìn nhận khó khăn vướng mắc là phải nhìn ra xu hướng, nhìn ra luật chơi để đi cùng, đi trước.
PHIÊN II: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TỪ CÁCH MẠNG 4.0
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Hội thảo sẽ chuyển sang phiên thảo luận hai Cơ hội và thách thức từ công nghệ 4.0, áp lực chuyển đổi số, chuyển đổi xanh với doanh nghiệp. Ý kiến đầu tiên xin mời ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM
Phần lớn doanh nghiệp Việt chưa tính đến tranh chấp thương mại trực tuyến
Ông Nguyễn Anh Dương: Làm thế nào để hỗ trợ cho doanh nghiệp, chúng ta đã có các biện pháp kỹ thuật, phi thuế quan. Khi động đến các biện pháp này, có những doanh nghiệp lợi và thiệt.
Đã có các biện pháp kiểm soát thương mại, chúng ta cũng có cam kết kiểm tra nhu cầu kinh tế. Chúng ta có quy định, chủ trương, nhưng khi thực hiện khi các bộ, UBND… được trao quyền thì không dám kiểm tra. Với môi trường số, có các hàng rào bảo vệ mà chúng ta muốn các doanh nghiệp công nghệ thông tin trong nước phát triển. Làm thế nào cân bằng lợi ích giữa 2 bên? Làm thế nào để bảo mật dữ liệu, mỗi nước có cách bảo mật dữ liệu, cá nhân riêng. Doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam muốn xuất khẩu ra nước ngoài thì phải đảm bảo tiêu chuẩn của 2 nước.
Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM. Ảnh: Phạm Thắng.
Ủy ban Kinh tế APEC thảo luận lâu và đưa ra cơ chế hệ thống hợp tác bảo vệ dữ liệu cá nhân xuyên biên giới với các bên tự nguyện tham gia. Như vậy, một doanh nghiệp lớn nước này khi sang nước khác hoạt động thì không cần chứng nhận bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Hiện có 9 quốc gia tham gia, Việt Nam vẫn chưa tham gia. Vấn đề khó nhất cho các cơ quan Nhà nước là doanh nghiệp muốn cơ quan Nhà nước hỗ trợ, nhưng không biết hỗ trợ như nào và không dám hỗ trợ. Ngân sách sẵn sàng chi cho doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện chuyển đổi số, nhưng như thế nào để chi, liệu có đáng để chi cho 2-3 dòng code? Các cơ quan muốn hỗ trợ an toàn cho doanh nghiệp, thì phải thẩm định giá.
Vấn đề là những đơn vị này đều từ chối hết các giải pháp chuyển đổi số có vài tỷ như thế. Cuối cùng là phần lớn doanh nghiệp Việt Nam chưa tính đến tranh chấp thương mại trực tuyến. Khi hợp đồng có vấn đề thì phải làm thế nào?
TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó chủ tịch Thường trực VAFIE (đứng). Ảnh: Phạm Thắng.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Ông Nguyễn Anh Dương đã có nghiên cứu khá sâu về chuyển đổi số trong thương mại điện tử, tôi đánh giá đây là tài liệu rất đáng tham khảo. Ở phần thảo luận này, hội thảo sẽ được nghe thêm một tham luận của ông Lê Hồng Việt, Tổng Giám đốc Công ty TNHH FPT Smart Cloud, một trong những doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực này tại Việt Nam.
Việt Nam đứng trước cơ hội chưa từng có bước vào kỷ nguyên công nghệ
Ông Lê Hồng Việt: Theo báo cáo gần đây nhất của Google & Bain Co., nền kinh tế số của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á.
Quy mô và số lượng giao dịch tăng vọt của nền kinh tế số tạo ra số lượng dữ liệu khổng lồ, điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần có một nền tảng linh hoạt để lưu trữ, xử lý dữ liệu, một công cụ mạnh mẽ để khai thác dữ liệu. Trí tuệ nhân tạo (AI) là một trong những lời giải hàng đầu để giải quyết bài toán này.
Ông Lê Hồng Việt, Tổng Giám đốc Công ty TNHH FPT Smart Cloud. Ảnh: Phạm Thắng.
Dẫn chứng từ báo cáo IBM năm nay, AI giúp 35% doanh nghiệp tăng tối thiểu 5% doanh thu, có những đơn vị chạm mốc 20%. Doanh nghiệp Việt có thể thoát khỏi vùng an toàn, khai phá những lĩnh vực kinh doanh mới nhờ ứng dụng AI.
Theo đó, AI giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, rút ngắn tốc độ ra quyết định và cải thiện trải nghiệm của khách hàng. Điều này giúp các doanh nghiệp Việt có thể đạt được những bước nhảy vọt về năng suất lao động để thoát khỏi "bẫy" thu nhập trung bình. Các mô hình tính toán hiệu năng lớn trong phát triển thuật toán AI cần tới những siêu máy tính và hạ tầng dữ liệu tiên tiến.
Để phát triển AI, việc đầu tư nghiên cứu và tự chủ về chip bán dẫn là một "vấn đề nóng" giữa các quốc gia. Thị trường bán dẫn toàn cầu được dự báo sẽ tăng trưởng 2 con số trong những năm tới để đạt 1.000 tỷ USD vào năm 2030.
Việt Nam đã và đang xây dựng dự thảo Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035. Chiến lược sẽ đề ra tầm nhìn, khẳng định quyết tâm, mục tiêu, lộ trình, các nhiệm vụ giải pháp cũng như các chính sách ưu đãi đặc biệt của Việt Nam nhằm phát triển công nghiệp điện tử nói chung và công nghiệp bán dẫn nói riêng.
Việt Nam đang đứng trước cơ hội chưa từng có để bước vào kỷ nguyên công nghệ, phát triển mạnh mẽ các sản phẩm công nghệ "made-in-Vietnam" và tham gia vào chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu.
Đây là con đường rộng mở giúp Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và phát triển bền vững, nâng cao vị thế quốc gia trên bản đồ quốc tế. Bloomberg dự báo rằng trong 10 năm tới, thị trường GenAI (AI tạo sinh) sẽ tăng từ 40 tỷ USD năm 2022 lên 1.300 tỷ USD vào 2032, tăng 32,5 lần.
Điều này mở ra một thị trường mới lớn cho AI tạo sinh. Rất có thể, AI tạo sinh là mùa xuân mới trong lịch sử phát triển AI. Các lĩnh vực công nghệ chủ chốt như AI và bán dẫn sẽ nhanh chóng tiến tới quy mô nghìn tỷ đô vào năm 2030.
Việt Nam tuy đi sau nhưng có những lợi thế về chính trị - địa lý, chiến lược và chính sách hỗ trợ Chính phủ cùng với sự đồng hành, quyết tâm cao của những tập đoàn công nghệ hàng đầu như FPT. Đây là cơ hội cho Việt Nam - quốc gia "dùng đũa" tiếp theo vươn lên đón đầu làn sóng sau cường quốc bán dẫn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Xin cảm ơn bài trình bày ông Lê Hồng Việt, chuyên gia về công nghệ, ông Việt đã nêu khá rõ lợi ích trí tuệ nhân tạo (AI) mang lại qua những dẫn chứng dễ hiểu. Tiếp theo xin mời ý kiến từ ông Đỗ Tiến Thịnh, Phó giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC), ông có thể chia sẻ thông tin về tỷ lệ doanh nghiệp Việt đang ứng dụng AI bao nhiêu %, nếu đứng ngoài việc áp dụng AI liệu có cạnh tranh với các doanh nghiệp khác để tồn tại không?
Để thành công, doanh nghiệp cần đầu tư vào AI
Ông Đỗ Tiến Thịnh: Việt Nam có lợi thế trong khai thác những lợi ích to lớn mà trí tuệ nhân tạo (AI) có thể mang đến. Bao gồm: Dân số trẻ, được đào tạo và có hiểu biết về công nghệ, trong đó 70% công dân dưới 35 tuổi; nền kinh tế Internet phát triển nhanh thứ hai ở Đông Nam Á với tổng giá trị hàng hóa được dự báo sẽ tăng ở mức 29% hằng năm cho đến năm 2025; các chính sách hỗ trợ nhằm thúc đẩy triển khai và cải tiến công nghệ số chẳng hạn như chính sách về "Cách mạng công nghiệp 4.0", chiến lược AI.
Ông Đỗ Tiến Thịnh, Phó giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC). Ảnh: Phạm Thắng.
Năm 2030, giá trị tác động kinh tế hàng năm của công nghệ số tại Việt Nam có thể đạt đến khoảng 74 tỷ USD (heo nghiên cứu của Google). Riêng lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm của Việt Nam có thể chiếm khoảng 17% cơ hội phát triển kinh tế mà các công nghệ số mang lại.
Dù vậy, AI cũng mang đến một số thách thức cho nền kinh tế và mỗi doanh nghiệp, như: Sự biến mất hoặc suy giảm mạnh của nhiều ngành, lĩnh vực kinh doanh; trí tuệ nhân tạo sẽ thay thế rất nhiều lập trình viên, giáo viên, diễn viên, nhân viên marketing, kỹ sư, tổng đài viên…; sự cạnh tranh gay gắt theo mức độ ứng dụng AI trong sản phẩm, dịch vụ.
Không có một chiến lược AI nào có thể phù hợp với tất cả các quốc gia/nền kinh tế cũng như cho mỗi doanh nghiệp, nhưng công thức cơ bản để thành công là chủ động đầu tư vào cơ sở hạ tầng đám mây, nghiên cứu ứng dụng AI, cũng như phát triển dữ liệu.
Vì vậy, cần nắm được xu hướng mất đi/hình thành ngành, lĩnh vực mới do AI tác động; cần xác định những khâu, những quy trình có thể ứng dụng AI để tăng năng lực cạnh tranh, giảm giá thành; Khả năng khởi nghiệp (startup) với AI; lan tỏa lợi ích AI, thúc đẩy ứng dụng AI trong doanh nghiệp, người dân, khu vực công.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Xin cảm ơn phần trình bày nhiều thông tin từ ông Đỗ Tiến Thịnh, tôi xin thêm câu hỏi là NIC có thể giúp gì ngay lập tức cho các doanh nghiệp trong việc ứng dụng AI?
Ông Đỗ Tiến Thịnh: Nếu các quý vị nằm trong 9 lĩnh vực NIC thiết kế, hỗ trợ, chúng tôi sẽ kết nối với quý vị. Hiện nay, NIC hỗ trợ cả DN lớn, tập đoàn để kết nối với các chuyên gia, nhà khoa học. DN nhỏ và vừa có thể qua các vườn ươm tạo cấp tỉnh. DN chỉ cần ý tưởng khởi nghiệp và mô hình klinh doanh tốt là có thể đưa vào ươm tạo.
Chúng tôi có quan hệ với 71 trường đại học, viện nghiên cứu, vì vậy khi DN có bài toán, có thể chia sẻ, NIC hỗ trợ cung cấp chuyên gia phù hợp để có phương án tốt nhất. Bộ KH&ĐT cũng có mạng lưới người Việt toàn cầu, chúng tôi có thể tìm chuyên gia trên toàn cầu để kết nối, hỗ trợ DN. NIC không thể tài trợ tiền cho DN nhưng có thể hỗ trợ kết nối chuyên gia, công nghệ.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: PGS-TS. Đặng Trần Thọ, Viện trưởng Viện KH&CN Nhiệt Lạnh (Đại học Bách Khoa Hà Nội), từ kinh nghiệm thực tiễn ông thấy có thể tận dụng AI như nào?
PGS-TS. Đặng Trần Thọ: Cơ hội lớn nhất mà Việt Nam cần nhìn nhận hiện nay ở chuyển đổi số, xanh là chúng ta có xuất phát điểm không lệch nhiều so với các quốc gia khác. Để tận dụng điều này, chúng ta cần có 2 giải pháp.
PGS-TS. Đặng Trần Thọ, Viện trưởng Viện KH&CN Nhiệt Lạnh (Đại học Bách Khoa Hà Nội). Ảnh: Phạm Thắng.
Một, tất cả cơ chế chính sách nên "review" lại, có những chính sách còn cách xa doanh nghiệp.
Hai là, các doanh nghiệp cần thay đổi góc nhìn, có nhiều công nghệ cầu đầu tư, mồi câu, kết hợp các nhà khoa học.
Nhiều trường đại học có những sáng tạo, đổi mới, nhưng có những tư tưởng làm xong nghiên cứu và dừng lại. Sự kết hợp 2 cơ chế là rất tốt, theo hướng một số doanh nghiệp lớn như Coca-Cola, Pepsi thì không nên làm, và chắc chắn sẽ thất bại.
Ngoài ra, chúng ta chưa nói đến năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Khi chuyển đổi sang công nghệ 5G, dung lượng truyền tải tăng chục lần, chi phí điện cũng tăng hàng chục lần, chúng ta cũng cần những công nghệ phù hợp.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Qua ý kiến vừa rồi, chúng ta có thể thấy một số vấn đề hiện hữu, ví như câu chuyện ngành mới lĩnh vực mới nếu không có năng lượng sạch thì như nào, xin mời chuyên gia kinh tế Nguyễn Thanh Hải chia sẻ và cho biết một số điểm mới, hay yêu cầu bức bách chuyển đổi xanh với doanh nghiệp như nào?
TS. Nguyễn Thanh Hải: Rủi ro với doanh nghiệp trong chuyển đổi xanh là pháp lý và chính sách. Trong quá trình xây dựng danh mục phân loại xanh tôi thấy rằng khi chuẩn bị soạn thảo chúng tôi tham vấn 100 viện, chuyên gia cùng nhiều hiệp hội doanh nghiệp và các doanh nghiệp, định chế tài chính, hầu hết đều đề nghị theo hướng thích ứng với thị trường.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Thanh Hải. Ảnh: Phạm Thắng.
Hơn 3 năm, dự thảo vẫn chưa hoàn thành. Có thể nói thách thức và rủi ro lớn nhất cho chuyển đổi năng lượng nói riêng và chuyển đổi xanh nói chung của các doanh nghiệp hiện nay chính là thiếu Chuẩn mực Phân loại xanh rõ ràng, Khung Pháp lý và Chinh sách còn thiếu và hay thay đổi.
Tại COP26, Chính phủ Việt nam đã có một loạt cam kết, trong đó có cam kết phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Đây là thách thức lớn đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt nam, là khu vực sẽ phải thực thi các cam kết này.
Trong điều kiện Việt Nam là nền kinh tế tuy còn nhỏ, nhưng rất mở và liên kết rất chặt với nền kinh tế thế giới, để định hướng chuyển đổi xanh, Việt Nam cần xây dựng chuẩn mực và khung pháp lý, chính sách cho quá trình chuyển đổi xanh.
Nhất là phải từng bước xây dựng một hệ thống tiêu chí để phân loại xanh tương thích với các chuẩn mực quốc tế và phù hợp với điều kiện phát triển của Việt nam, làm cơ sở để xây dựng các chuẩn mực, cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư các ngành xanh được ưu tiên và phát triển tài chính xanh cho chuyển đổi xanh.
TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó chủ tịch Thường trực VAFIE (đứng). Ảnh: Phạm Thắng.
TS. Nguyễn Anh Tuấn phát biểu kết thúc hội thảo: Dù chủ đề khá rộng, cơ hội và thách thức đối với cả trong nước, nước ngoài, áp lực chuyển đổi xanh, chuyển đổi số..., hội thảo đã kịp chỉ rõ, nhận diện những cơ hội mới xuất phát từ bối cảnh mới của địa chính trị, của kinh tế chính trị thế giới, sự thay đổi xu hướng đầu tư...
Cùng với đó là những vấn đề cụ thể như ích lợi chuyển đổi số mang lại, doanh nghiệp cần bắt đầu từ đâu, một phần nào đó giúp các doanh nghiệp có tư duy, nhận thức ứng phó vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay.